Cá lóc bông (Channa micropeltes) là loài cá có thịt thơm ngon, được nhiều người ưa thích. Được biết, nguồn gốc của con cá lóc có thể từ Biển Hồ, Campuchia. Vào mùa nước nổi thì đàn cá này sẽ xuôi theo con nước về định cư ở vùng Đồng Tháp Mười và sinh sản. Việc nuôi cá lóc bông đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi. Hôm nay chúng tôi xin hướng dẫn cách nuôi cá lóc bông để bà con có thêm kiến thức về phương pháp nuôi cá lóc bông chuẩn và tăng năng suất. Sau đây mọi người cùng tham khảo và thực hiện nhé.
Ao nuôi
Ao nuôi cá lóc bông có diện tích từ 500 m2 trở lên, độ sâu từ 1,5 – 2 m, bờ ao phải cao và chắc chắn. Cống thoát nước có khẩu độ lớn để thoát nước dễ dàng. Trước khi thả nuôi cá, ao được tát cạn, vét bùn đáy, tu sửa chổ sạt lở, lấp hết lỗ mọi quanh ao. Rải vôi đáy ao từ 10 – 15kg/100 m2 ao, phơi đáy 2 – 3 ngày rồi cấp nước vào ao. Nguồn nước cấp cho ao phải chủ động, cấp thoát dễ dàng, nước không bị nhiễm phèn và mặn (pH phải từ 6,5 – 8,5; độ mặn dưới 5‰).
Mùa vụ và mật độ thả giống
Có thể nuôi quanh năm. Cá giống thả nuôi có kích cỡ đồng đều, trọng lượng từ 15 – 20g/con. Cá khỏe mạnh, nhanh nhẹn, màu sắc sáng, cơ thể cân đối, nhiều nhớt. Trước khi thả xuống ao nuôi, cá giống được tắm nước muối nồng độ 3%. Nên thả cá vào lúc trời mát. Mật độ thả giống từ 25 – 30 con/m2.
Chăm sóc và cho ăn
– Thức ăn cho cá nuôi: Thức ăn chủ yếu là cá tạp biển, cá vụn. Giai đoạn cá còn nhỏ trong 2 tháng đầu, thức ăn cần được xay nhuyễn hoặc băm nhỏ. Khi cá lớn, thì chỉ cần băm nhỏ hoặc cắt khúc những loại thức ăn có kích cỡ lớn hoặc quá dài. Khẩu phần ăn từ 3 – 5% trọng lượng cá trong ao. Cá càng lớn thì khẩu phần ăn cũng giảm dần.

+ Thức ăn của cá được rải trên sàng ăn. Sàng ăn được làm bằng tre hoặc gỗ và được đặt ngập trong nước khoảng 10cm.
+ Hệ số tiêu tốn thức ăn tùy thuộc vào chủng loại và chất lượng thức ăn. Với thức ăn cá biển (cá tạp), hệ số thức ăn trung bình từ 3,5 – 4 kg thức ăn/kg cá nuôi.
Quản lý môi trường nuôi và thu hoạch
– Quản lý môi trường ao nuôi: Hằng ngày theo dõi chặt chẽ mức độ ăn của cá để điều chỉnh kịp thời và hợp lý lượng thức ăn.
+ Nước trong ao cần được thay đổi thường xuyên (1 – 2 lần/tuần), mỗi lần thay 30 – 40% lượng nước trong ao.
+ Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá trong ao để kịp thời phát hiện những dấu hiệu lạ như cá bỏ ăn, bơi không bình thường, nhiễm bệnh… để có biện pháp chữa trị kịp thời.
– Thu hoạch: Thờ gian nuôi cá lóc bông trong bè từ 8 – 10 tháng, cá đạt cỡ 0,8 – 1,5kg/con. Tùy theo tăng trọng của cá và giá cả thị trường người nuôi có thể chủ động thu hoạch.
– Trước khi thu hoạch 1- 2 ngày, giảm thức ăn và không nên cho cá ăn vào ngày thu hoạch.
Kỹ thuật ương nuôi cá giống
Ương trong bể

Bể ương có diện tích tối thiểu 5 – 20m2. Ðộ sâu nước 0,8 – 1m. Mật độ thả ương là 5.000 – 6.000 cá bột/m2. Có thể ương cá trong giai bằng lưới cước đặt trong ao, diện tích 2-10m2. Mật độ ương 8.000 – 10.000 cá bột/m2.
Thức ăn : Tuần đầu cho ăn Moina 0,2 – 0,3 kg/10.000 cá bột. Tuần thứ hai cho ăn trùn chỉ 1,5 – 2kg/10.000 cá bột. Sau 15 ngày thì cho ăn chủ yếu là cá xay, lượng cho ăn từ 3 – 4 kg cho 10.000 cá. Thay nước theo thuỷ triều hoặc định kỳ bơm cấp thay nước mới. Kết hợp sục khí trong bể và giai.
Ương 20 – 25 ngày, cá đạt cỡ 4 – 5 cm, ương tiếp 1 tháng cá đạt cỡ 8 – 10 cm.
Ương cá Lóc bông trong ao
Diện tích ao > 200m2, nước sâu từ 1 – 1,2m. Mật độ ương từ 150 – 200 con/m2.
Thức ăn chủ yếu là động vật phù du (Moina, Daphnia) trong ao, bổ sung 0,1 – 0,2 kg moina/10.000 cá bột/ngày, sau một tuần cho cá ăn thêm trùn chỉ (1 – 1,5kg/10.000 cá). Từ ngày thứ 10 cho cá ăn cá xay (3,5 – 4kg/10.000 cá). Sau 20 – 21 ngày ương, cá đạt cỡ chiều dài 5 – 6cm, lọc bỏ cá nhỏ, còi cọc hoặc cá lớn trội rồi ương tiếp tục từ 3 – 4 tuần để cá đạt cỡ 8 – 10cm.