Sò (sò lông, sò huyết) là loài động vật thân mềm có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao. Sò cũng là vật phẩm có thể cải thiện chất lượng nước, nước thải ao nuôi tôm cá có thể tận dụng để làm ao nuôi sò hoặc nuôi sò trong ao chứa để lọc lấy nước trước khi cho vào ao nuôi tôm. Nuôi sò cần ít vốn đầu tư, không cần phải cho ăn mà chỉ cần người nuôi bỏ công quản lý. Do sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên, với vốn đầu tư ít và quản lý đơn giản, mô hình nuôi sò trong ao đầm mang lại nhiều lợi ích cho người dân.
Lựa chọn bãi nuôi đạt tiêu chuẩn
Bãi nuôi là những nơi ít sóng gió, gần cửa sông. Chất đáy tốt nhất là bùn mềm pha lẫn cát mịn. Cũng giống như nuôi ngao, bãi nuôi sò tốt nhất là tuyến triều thấp, thời gian phơi bãi ngắn. Khu vực bãi nuôi phải nhiều thức ăn, nước tốt. Bãi nuôi nên chọn khu vực gần cửa sông để có thể bổ sung dinh dưỡng, cần chú ý đến sự thay đổi của độ mặn để tránh ảnh hưởng tới sò nuôi.
Quy hoạch lại bãi nuôi
Bãi nuôi sò phải được san bằng phẳng, vệ sinh mặt bãi. Bãi nuôi rộng cần chia ra thành từng ô để tiện chăm sóc, theo dõi cũng như thu hoạch. Xung quanh bãi nên chắn đăng hoặc lưới để ngăn địch hại vào bãi hoặc ngăn không cho sò đi. Trong trường hợp nuôi sò trong ao, đầm thì phải đảm bảo một số điều kiện như:
– Bờ bao: Xây dựng bờ bao có độ cao thích hợp tùy theo cao trình của vùng đất và biên độ thủy triều.
– Mương: Gồm mương bao và mương chính để dẫn nước từ ngoài vào và thoát nước khi trao đổi nước. Kích thước mương phụ thuộc vào diện tích của đầm.
– Bãi sò: Đây là nơi sinh sống của sò, bãi cần phải làm phẳng, cao trình bãi phải đảm bảo thấp để có thể điều tiết nước theo thủy triều trong quá trình nuôi.
– Cống: Dùng để điều chỉnh lượng nước trong đầm. Tùy theo diện tích của đầm mà xây dựng cống có khẩu độ và số lượng đầy đủ để đảm bảo sự trao đổi nước.
– Bờ cản: Với những đầm có diện tích lớn, dòng chảy mạnh thì cần có bờ cản để hạn chế tác động của dòng chảy mạnh vào bãi sinh sống của sò.
Lấy giống sò trong tự nhiên
Việc lấy giống sò có thế lấy lúc bãi cạn hoặc bãi ngập nước.
Lấy giống lúc bãi cạn: khi triều xuống lộ mặt bãi, dùng cào cào lớp bùn trên mặt sau đó dùng sàng, rổ, lưới để đãi bùn loại bỏ rác, tạp vật để lấy sò giống. Mỗi lần lấy giống xong phải san lại mặt bãi cho bằng phẳng để thu giống sò đợt sau.
Lấy giống lúc bãi ngập nước: cách lấy giống này qui mô hơn, thường tiến hành vào những ngày yên sóng hoặc lúc triều bắt đầu xuống nhưng nước còn ngập bãi. Dụng cụ gồm thuyền máy có lưới cào hoặc dùng cào tay, cào lớp bùn trên mặt để thu giống.
Vận chuyển giống
Sau khi lấy giống có thể vận chuyển giống bằng phương pháp giữ ẩm. Thời gian vận chuyển là 2 – 3 ngày tùy theo điều kiện thời tiết. Ở nhiệt độ thấp, thời gian cho phép để vận chuyển lâu hơn và tỉ lệ sống cao hơn. Trong quá trình vận chuyển nên thường xuyên tưới nước biển giữ ẩm cho sò, tránh mưa nắng. Do tận dụng được các nguồn thức ăn tự nhiên, vốn đầu tư ít và dễ quản lý nên mô hình nuôi sò trong ao, đầm đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân.
Lượng giống thả là bao nhiêu?
Sò giống tốt thường có màu trắng hồng, sạch sẽ, không lẫn tạp chất, rác, sinh vật địch hại như cua, ốc. Không thả giống khi con giống có mùi hôi thối, có dấu hiệu chết. Nên thả giống khi nước còn ngập bãi 10 – 15cm để sò không bị phơi nắng và có thời gian chui xuống bùn ẩn nấp. Có thể dùng thuyền đi trên bãi rải giống đều khắp mặt bãi. Lượng giống thả khoảng 7 – 22 ngàn con/m2 (cỡ giống 20.000 – 60.000 con/kg). Tránh xuống giống nước chảy mạnh làm sò giống bị cuốn trôi theo dòng nước.
Chăm sóc, nuôi dưỡng sò
Trong quá trình nuôi cần chú ý sự thay đổi của các yếu tố môi trường. Nhất là nồng độ muối. Vào mùa mưa, các vùng gần cửa sông nồng độ muối thường giảm đột ngột ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỉ lệ sống của sò.
Theo dõi màu sắc mặt bãi nuôi: Màu sắc của bãi nuôi và sự sinh trưởng của sò có liên quan theo một qui luật. Mặt bãi màu đen hoặc hơi nâu sẽ có nhiều sinh vật làm thức ăn cho sò, sò sinh trưởng nhanh. Mặt bãi màu xanh hoặc vàng chúng tỏ các loại tảo đáy mọc dày, không có lợi cho sò, sò chậm lớn. Mặt bãi màu trắng chứng tỏ có sóng lớn cuối trôi bùn ra khỏi bãi.
Nên thường xuyên kiểm tra bãi sò, các hệ thống lưới; đăng chắn, bờ bao, cống… để kịp thời sửa chữa. Kiểm tra điều kiện môi trường, tình trạng bãi nuôi nhằm hạn chế những bất lợi cho hoạt động sống của sò. Trong quá trình nuôi nên định kỳ cào sò xung quanh lưới chắn để san thưa vì sò thường tập trung xung quanh lưới chắn. Việc cào sò để san thưa cũng giúp tiêu diệt địch hại, cân bằng mật độ, giúp sò mau lớn hơn.
Thu hoạch vụ nuôi
Sau thời gian nuôi 1 năm có thể thu hoạch, cỡ phổ biến là 40 – 60 con/kg. Dùng cào tay hoặc cào máy để thu hoạch và vận chuyển đến nơi tiêu thụ. Thu hoạch có thể tiến hành quanh năm tùy theo thị trường. Nhưng tốt nhất nên tiến hành vào thời điểm sò thành thục sinh dục. Nguyên nhân vì giai đoạn này sò béo, đạt tối đa cả về khối lượng và chất lượng.
Ăn sò huyết có tác dụng gì?
Theo Đông y, sò huyết là loại hải sản vị ngọt, mặn, tính nóng, khá lành. Do đó, sò huyết có nhiều lợi ích cho hệ tuần hoàn máu và hệ tiêu hóa. Bao gồm: bổ huyết, kiện vị, huyết hư, thiếu máu, kiết lỵ, tiêu hóa kém và viêm loét dạ dày.
Giá trị dinh dưỡng của sò huyết khá cao: chứa nhiều chất dinh dưỡng, giàu đạm mà ít chất béo. Trong sò huyết lại chứa nhiều loại khoáng chất cần thiết cho cơ thể. Những bài thuốc từ sò huyết có khả năng hồi phục chức năng, sức khỏe cho cơ thể. Hơn nữa lại là một món ăn ngon miệng, hấp dẫn.
Cũng như các loại hải sản khác, sò huyết cũng chứa axit béo omega-3 tốt cho tim mạch. Mặc dù lượng chất này trong sò huyết không nhiều bằng một số loại cá như cá hồi. Ngoài ra, sò huyết còn chưa vitamin B12 cũng hỗ trợ hoạt động của cơ tim.