Cá dứa (tên tiếng Anh là Pangasius kunyit) là một loài cá nhiệt đới. Loài cá này có khả năng thích nghi được với điều kiện nước ngọt, nước lợ, được coi là đối tượng nuôi thích hợp để chọn lọc, luân canh, thay đổi môi trường ao nuôi. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, nghề nuôi tôm gặp khó khăn, vất vả. Cá dứa có thịt chắc, chất lượng thịt mỏng, giá trị sản lượng cao, hiệu quả kinh tế cao, được nhiều người ưa chuộng do nhu cầu tiêu thụ sản phẩm tươi và khô. Khô cá dứa là một đặc sản của sự phát triển du lịch ngày nay.
Mô hình nuôi cá dứa
Với mục đích ban đầu giúp cải tạo, thay đổi môi trường ao nuôi tôm và đa dạng đối tượng nuôi thủy sản tại khu sản xuất của Trung tâm Tập huấn và Chuyển giao công nghệ nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Trung tâm Tập huấn), cuối năm 2016, đơn vị đã nuôi thử nghiệm cá dứa. Số lượng thả nuôi là 1.500 con trên diện tích 1.000 m2 ao nuôi, cỡ giống ± 3 cm/con với mật độ nuôi 1,5 con/m2. Mô hình sử dụng thức ăn công nghiệp (loại sử dụng cho cá basa, cá tra).
Sau thời gian nuôi 09 tháng, thu hoạch cá nuôi đạt trọng lượng từ 0,8 kg đến 1,2 kg/con. cho thu hoạch trên 1,2 tấn cá thương phẩm, năng suất trên 12 tấn/ha, bán với giá 130.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí cho lợi nhuận trên 60 triệu đồng/1000m2 ao nuôi.
Chuẩn bị ao nuôi cá dứa
Diện tích ao tốt nhất: 3.000 – 5.000 m2. Độ sâu ao tốt nhất là 1,5 – 2 m. Ao cạn không phù hợp với bản tính sống vùng nước sâu của cá. Đồng thời môi trường nước ở các ao cạn cũng dễ biến động, vì thế ảnh hưởng đến sức khỏe của cá. Nếu ao quá sâu, tầng đáy là tầng bị ô nhiễm đầu tiên và nhiều nhất trong ao. Cho nên, tầng đáy càng sâu càng bất lợi. Ngoài ra, tầng đáy là tầng có hàm lượng ôxy hòa tan rất thấp, quạt nước cũng khó tác động đến được.
Độ mặn trong khoảng 2 – 19‰ là đạt. Tuy nhiên, theo đặc điểm sinh thái của cá đã nêu trên, trong tự nhiên cá phân bố nhiều ở vùng cửa sông, nơi có độ mặn dao động 8 – 20‰. Độ pH trong ao khoảng 6,5 – 8. Khí hậu miền Nam hoàn toàn phù hợp với sự phát triển cá, nhiệt độ 26 – 320C. Đây là loài cá có ngưỡng chịu đựng ôxy hòa tan thấp. Vì vậy cần bố trí hệ thống sục khí khi nuôi ở mật độ 2 – 5 con/m2.
Chọn cá dứa giống
Cá dứa giống chủ yếu có nguồn gốc từ một số tỉnh An Giang, Tiền Giang, Sóc Trăng. Chọn cá dứa giống kích cỡ 4 – 6cm/con, loại 25 – 40 con/kg.
Mật độ nuôi 1- 2 con/m2 nếu ao không có hệ thống quạt nước. Mô hình thích hợp với các hộ dân ít vốn hay nuôi mặt nước lớn. Thả 3 – 5 con/m2, bắt buộc phải có hệ thống quạt nước: nuôi chuyên canh, trong hệ thống ao diện tích phù hợp. Lưu ý trước khi thả cá giống nên thuần hóa độ mặn để hạn chế cá giống bị sốc nước.
Kỹ thuật chăm sóc, quản lý ao nuôi
Thay nước: Cá dứa có thể nuôi trong điều kiện nước chảy như nuôi bè, nuôi đăng quầng. Do đó, trong điều kiện nuôi, tùy vào chất lượng nguồn nước cấp (mức độ ô nhiễm, sự chênh lệch các yếu tố môi trường như độ mặn, độ pH…) mà có chế độ thay nước phù hợp. Tuy nhiên, cá lớn sau 3 tháng nuôi có thể thay nước tối đa theo khả năng 1 – 2 lần/ngày. Mỗi lần 50 – 60% lượng nước mới.
Cho ăn: Cá dứa có phổ thức ăn rộng, trong điều kiện nuôi có thể tận dụng nhiều loại thức ăn cho cá. Sử dụng thức ăn công nghiệp có nguồn gốc rõ ràng, độ đạm 18 – 25%. Khi nuôi mật độ cao (> 2 con/m2) nên chọn loại thức ăn phù hợp để vừa đảm bảo mức tăng trưởng tối đa của cá vừa hạn chế ô nhiễm nước và giảm giá thành. Cho ăn hợp lý: khu vực cho ăn càng rộng, càng xa bờ, càng có lợi cho cá.
Ngoài ra cần tăng cường vitamin và khoáng chất, nhất là Vitamin C để phòng bệnh. Theo dõi bờ ao, cống bọng, lưới bao (nếu có). Ao nuôi cần được cải tạo, gia cố bờ, bón vôi, phơi đáy. Lưu ý vét kỹ lớp bùn, phơi đáy ao vì cá dứa là loài ăn nhiều nên lượng chất thải tích tụ nền đáy khá lớn.
Thu hoạch cá dứa
Khi nuôi được 8 – 9 tháng, cá đạt trọng lượng 0,8 – 1,5 kg/con thì thu hoạch. Thu cá bằng cách kéo lưới. Cá thu hoạch phải sơ chế; ướp lạnh ngay để đảm bảo chất lượng khi suất bán.
Trong thời gian triển khai mô hình, Trung tâm Tập huấn đã đón tiếp trên 90 lượt cán bộ khuyến nông của một số tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và trên 120 lượt bà con nông dân quanh vùng đến thăm quan, học tập, chuyển giao kỹ thuật. Từ đó giúp người dân trong khu vực có thêm một đối tượng nuôi thủy sản để lựa chọn, luân canh, chuyển đổi khi môi trường ao nuôi tôm gặp khó khăn, bất lợi như hiện nay.