Hiện nay, mô hình nuôi cua xanh thương phẩm ngày càng được người chăn nuôi lựa chọn. Đây là giống cua với nhiều ưu điểm lớn nhất của việc nuôi cua đó chính là vốn đầu tư thấp nhưng giá trị kinh tế mang lại rất cao. Bên cạnh đó, nếu so với nguồn cua giống tự nhiên, nguồn giống nhân tạo có nhiều ưu điểm vượt trội, kích cỡ đồng đều, đồng thời, sạch bệnh, sức đề kháng cao và tốc độ tăng trưởng nhanh. Do đó, lựa chọn chăn nuôi cua sẽ ít xảy ra rủi ro hơn so với việc nuôi tôm, cá. Để hiểu rõ hơn về kỹ thuật nuôi bà con hãy cùng tham khảo qua bài viết dưới đây nhé.
Ao nuôi cua xanh thương phẩm
Diện tích ao nuôi từ 2.000-10.000m2, độ mặn thích hợp là 10-25 ‰. Chuẩn bị ao: Dùng cọc tre đan mỏng như lưới chắn ngang bờ … Cọc nghiêng xuống ao một góc 600, cọc cao 0,8-1m, chôn sâu 20-30cm. Trong ao cách bờ 2-3m đào kênh rộng 3-4m xung quanh ao. Giữa ao có cồn cát nổi cách mặt ao 0,2-0,3 m.
Trong kênh, thêm chà là để ẩn cua. Hoặc chà trong toàn bộ ao thay vì chà trên bờ. Có 2 cống: cống cấp thoát nước và rãnh thoát nước ở gần đáy kênh nối. Nó tương tự như cải tạo ương cua.
Cách chọn và thả giống cua xanh
Thả cua giống, màu sáng tự nhiên, khỏe mạnh, đẻ nhánh nhiều. Tốt nhất nên thả giống ương với kích thước 2-2,5 cm, mật độ 1 con / m2. Tốt nhất bạn nên kiểm kê thủ công với kích thước và thời gian như nhau. Đối với nuôi kết hợp (tôm-cua-cá), mật độ cua có thể là 0,2 con / mét vuông, tôm sú <10 con / mét vuông, cá <0,1 con / mét vuông.
Thả cua: Thả cua ở các vị trí khác nhau trong ao và thả cua vào bờ để cua bò xuống nước. Những con yếu thường nằm một chỗ hoặc bò chậm. Chúng ta nên đưa chúng trở lại khu chăn nuôi trong nhà để theo dõi rồi thả ra.
Hướng dẫn cách chăm sóc cua xanh thương phẩm
- Thức ăn chính là cá hỗn hợp hấp chín. Ghẹ ngày ăn 4 lần vào 8 giờ, 11 giờ, 17 giờ, 22 giờ chiếm khoảng 4 – 6% trọng lượng ghẹ. Chúng sẽ thường ăn nhiều vào ban đêm.
- Dùng khay đựng thức ăn để kiểm tra sức khoẻ của ao và phân bố đều thức ăn xung quanh ao. Điều này sẽ giúp cho cua tránh đánh nhau một cách hiệu quả.
- Thường xuyên bắt cua, cân, kiểm tra sự phát triển của cua, kiểm tra tình trạng của cua. Từ đó sẽ có biện pháp xử lý kịp thời hoặc điều chỉnh lượng thức ăn cho hợp lý.
- Thay nước 20-30% trong ao mỗi ngày. Thay nước trong toàn bộ ao mỗi tuần một lần.
- Thường xuyên kiểm tra bờ sông, cống rãnh, chướng ngại vật để tránh cua bị tuột mất.
- Kết thúc vụ thu hoạch, trọng lượng cua tăng, tiêu tốn nhiều thức ăn nên dễ gây ô nhiễm môi trường. Thay nước thường xuyên và kiểm tra môi trường để cua thích nghi sinh trưởng. Nếu có nhiều thức ăn thừa hoặc ôi thiu tích tụ dưới đáy hồ bơi, có thể phải xả, gạn và làm sạch.
- Không cho cua ăn thức ăn tươi sống, vì mầm bệnh dễ đưa vào ao nuôi.
Phương pháp phòng trị bệnh
Trong quá trình nuôi cua xanh thường mắc các bệnh như rụng chân (rủ còng), hoại tử, đen mang, teo cơ và thủng vỏ. Các bệnh này do virus, vi khuẩn, sinh vật bám và kí sinh trùng gây ra. Nguyên nhân, nền đáy nhiều mùn bã hữu cơ, nước ao đầm nuôi nhiều chất lơ lửng nên các loài virus vi khuẩn và kí sinh trùng phát triển mạnh, tấn công và gây bệnh cho cua, nhất là vào thời điểm sau khi lột xác.
Khi cua bị các loại bệnh này thì việc chữa trị ít hiệu quả, nếu khỏi bệnh cũng sẽ còi cọc chậm lớn. Do vậy, cần thay nước định kỳ (2 ngày/lần) từ tháng thứ 2 trở đi, không nên thay nước nếu trời mưa, nước thay đục và độ mặn thấp. Cùng đó, dùng vôi bón định kỳ xuống ao đầm (2 – 4 kg/100 m2) để khử trùng nước, hạn chế dịch bệnh cho cua nuôi.
Mặt khác, khi cua bị bệnh cần căn cứ vào từng loại bệnh cụ thể do cán bộ kỹ thuật xác định mà sử dụng thuốc đặc hiệu (kháng sinh, hóa chất) để chữa trị; đồng thời, dùng các sản phẩm như Vicato, BKC, Chlorine (5 – 7 ppm) để khử trùng nước nuôi.
Thu hoạch cua xanh thương phẩm
Ghẹ hay cua xanh thương phẩm phải đạt từ 250 gam/con trở lên. Phần thịt cua chắc hoặc nhiều gạch (cua cái). Những con nào không đạt kích cỡ, trọng lượng, cua bị ốp hoặc chưa nhiều gạch, nếu khỏe mạnh có thể thả nuôi trong ao nhỏ. Sau một thời gian tích cực nuôi đạt tiêu chuẩn thì thu hoạch.