Ngày nay, nuôi cá lóc có thể được đầu tư ở nhiều mức độ khác nhau, không nhất thiết phải có diện tích lớn, người nuôi có thể đầu tư ở mức thâm canh, nhưng cũng có thể sử dụng ao nhỏ hoặc nuôi trong bè, bể nước, bể xi măng hoặc trải bạt. Vì vậy, nuôi cá lóc không chỉ phù hợp với các hộ nghèo có kinh phí đầu tư nhỏ mà còn phù hợp với các doanh nghiệp chăn nuôi quy mô lớn. Theo đó, đây là mô hình hiệu quả đối với các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ góp phần xoá đói giảm nghèo nâng cao hiệu quả kinh tế. Do đó, mô hình này đã được nhân rộng trong các tỉnh thành cả nước.
Tập tính sinh học của cá lóc
Cá lóc thường gặp và phân bố rộng có 2 loài là: Ophiocephalus maculatus và Ophiocephalus arbus, nhưng đối tượng nuôi phổ biến nhất là loài O.maculatus.
Đặc điểm của cá lóc
Thích sống ở vùng nước đục, có nhiều rong cỏ. Tính thích nghi với môi trường xung quanh rất mạnh, nhờ có cơ quan hô hấp phụ nên cá có thể sử dụng được oxy trong không khí. Ở vùng nước hàm lượng oxy thấp cá vẫn sống được, đặc biệt chỉ cần da và mang cá có độ ẩm nhất định cá vẫn có thể sống được thời gian khá lâu ở môi trường không có nước.
Tập tính ăn
- Cá lóc thuộc loài cá dữ, tính ăn rộng. Cá nhỏ ăn các loại giáp xác, chân chèo, ấu trùng côn trùng; cá lớn hơn có thể ăn các loại côn trùng, các loại cá nhỏ, tôm nhỏ …; cá trưởng thành ăn tạp, ăn tất cả các loại cá, tôm, ếch, nhái. Trong điều kiện nuôi, cá cũng ăn thức ăn chế biến.
- Khi thiếu thức ăn cá lóc sẽ ăn thịt lẫn nhau, con lớn sẽ ăn con bé. Cá ăn mạnh vào mùa hè, mùa đông cá không bắt mồi.
Tập tính sinh trưởng
- Sinh trưởng nhanh, cá 1 tuổi dài 19 – 39 cm, nặng 95 – 760 g; cá 2 tuổi dài 38,5 – 40 cm, nặng 625 – 1.395 g; cá 3 tuổi dài 45 – 59 cm, nặng 1.467 – 2.031 g; cá lớn nhất có thể nặng 7.000 – 8.000 g.
- Ở nhiệt độ trên 20oC cá sinh trưởng nhanh, dưới 15oC sinh trưởng chậm.
Tập tính sinh sản
Cá thành thục sớm, 10 – 12 tháng tuổi đã có thể sinh sản. Mùa sinh sản tự nhiên từ tháng 4 – 7, tập trung vào tháng 4 – 5, cá có thể đẻ 5 lần/năm. Số lượng trứng tuỳ theo trọng lượng thân, cá nặng 0,5kg số lượng trứng 8.000 – 10.000 (cái), cá nặng 0,25kg số lượng trứng 4.000 – 6.000 (cái).
Trong tự nhiên, cá lóc thường làm tổ đẻ trứng ở khu vực nước yên tĩnh, có nhiều cây cỏ thực vật thủy sinh. Tổ hình tròn, được làm từ cây cỏ, thực vật trong nước, đường kính khoảng 30 – 40 cm. Cá đẻ vào sáng sớm, sau những trận mưa rào. Sau khi đẻ trứng xong, cả cá đực và các cái sẽ ở quây quần bên tổ để bảo vệ trứng cho tới khi trứng nở thành cá con. Khi cá con đạt kích thước 3 – 4 cm sẽ tách đàn sống độc lập.
Hiện nay lượng cá con trong thiên nhiên không đủ cung cấp cho nhu cầu của người nuôi, vì vậy người nuôi cá đã cho sản xuất giống nhân tạo để nâng cao hiệu quả khi nuôi và chủ động thời gian nuôi.
Kỹ thuật nuôi vỗ cá lóc trong ao
- Diện tích ao: 200 – 1.000m2, mật độ: 40-50 kg/100m2
- Thức ăn: Nếu dùng cá tạp, phế phẩm lò mổ, khẩu phần 5 – 7% khối lượng/ngày. Nếu dùng thức ăn viên (đảm bảo 45% đạm) 1,5-2% khối lượng cá/ngày.
- Nuôi khoảng 45 – 60 ngày cá thành thục.
- Chọn cá bố mẹ: Cá đực cơ thể thon, bụng nhỏ, màu sắc rõ các vạch trên thân, không xây sát. Cá cái: bụng to, mềm, lỗ sinh dục màu hồng, lồi, trứng vàng rơm, bóng, đều.
Kỹ thuật cho cá lóc đẻ và ấp trứng
Cho cá đẻ tự nhiên
Có thể đào hố đất nhỏ (2-4 m2), độ sâu 0,8-1,2m, có nguồn nước cấp vào ao đẻ. Mặt hố có thể thả ít bèo, rau muống hoặc làm vỉ che nắng. Mật độ 1 cặp/1 ao (1 đực, 1 cái).
Nếu sử dụng ao to cho cá lóc đẻ cần tiến hành như sau:
- Cải tạo ao, vét bùn, rải vôi, phơi đáy.
- Lấy nước vào ao, để lắng trong 3-5 ngày. Duy trì mực nước 0,8-1m.
- Làm tổ cho cá đẻ bằng lá dừa cắm xuống ao hoặc rau, bèo, mỗi tổ cách nhau 3-4m, cắm cách đáy 0,3-0,5m. Để sẵn trong tổ rau muống, rơm rạ để giữ trứng khi cá đẻ.
Cá lóc đẻ bằng phương pháp nhân tạo
Yêu cầu: Chọn cá chính xác, đặc biệt cá đực; kích thích tố có hoạt tính cao.
Đối với cá đực: Tiêm trước cá cái 8-10 tiếng, liều lượng: HCG 3.000 – 4.000 UI/kg hoặc tiêm cùng với lần tiêm thứ nhất của cá cái.
Đối với cá cái: tiêm 2 lần:
- Liều 1: 500 – 1.000 UI/kg cá cái.
- Liều 2: tiêm sau lần 7 – 8 giờ tiếp tiêm lần 2: liều lượng: 3 – 5 não + 3.000 – 4.000 HCG UI/kg cá cái.
- Sau 12 – 15 giờ cá sẽ đẻ trứng
- Sau khi tiêm xong, có thể cho cá đẻ trong bể xi măng, bể đất lót bạt hoặc cho cá đẻ dưới ao. Bể đẻ có diện tích 2-3m2, độ sâu 0,3-0,5m; mật độ 1 cặp/1 bể. Nếu cho đẻ dưới ao cần cắm tổ cho cá, các tổ cách nhau 3-4m.
Kỹ thuật ấp trứng
- Có thể sử dụng nhiều phương tiện sẵn có để ấp trứng cá lóc: thau, bể nhựa,…
- Mực nước: 0,2-0,5m
- Mật độ ấp trứng trung bình: 2.000 trứng/dm2
- Thay nước: 6 giờ/lần
- Nguồn nước ấp: sạch, không nhiễm bẩn và nhiễm bệnh
- Chú ý: loại bỏ trứng ung (có màu trắng đục)
- Sau khi cá nở 2 ngày có thể chuyển cá ra các dụng cụ có diện tích lớn hoặc các ao nhỏ đã được cải tạo đúng kỹ thuật.
Hướng dẫn kỹ thuật ương cá lóc
Ương trong bể
- Thức ăn: Dùng động vật phù du hoặc trứng đã luộc chín đánh tan trong nước cho cá ăn. Cho ăn 4-6 lần/ngày. Lượng cho ăn: thỏa mãn nhu cầu
- Mật độ ương: 2.000-4.000 con/m2.
- Sau 30 ngày, san thưa còn 1.000-2.000 con/m2
- Mực nước: 0,5-0,8m.
- Ngày thay nước 2-4 lần, mỗi lần thay 30% thể tích nước.
- Sau khoảng 10 ngày ương, tập cho cá ăn tép, cá nhỏ băm nát.
Ương trong giai/vèo
- Yêu cầu: loại lưới mùng mắt nhỏ cá bột không lọt. Nước ao sạch, mát.
- Mật độ: 10.000-20.000/m2 sau 1 tháng san thưa còn 5.000-10.000 con/m2
- Thức ăn: tương tự như ương trong bể xi-măng, bể nhựa.
- Sau khoảng 10 ngày ương, tập cho cá ăn tép, cá nhỏ băm nát.