Trong đời sống hàng ngày thì cá kèo là nguyên liệu để chế biến các món ăn rất được người tiêu dùng ưa chuộng, đặc biệt là các món nhậu như lẩu cá kèo, cá kèo chiên chấm mắm me,… không những thế còn được nhiều người biết đến là loài thuỷ sản dễ nuôi. Cá kèo thích nghi với mọi nguồn nước, độ mặn thích hợp nhất để cá phát triển tốt là 10-25 ‰. Tận dụng lợi thế này, nhiều người đã áp dụng kỹ thuật nuôi cá kèo trong ao nuôi tôm sú và gặt hái được nhiều thành công. Đây là điều mà chúng tôi muốn chia sẻ với các bạn trong bài viết này.
Quy hoạch đất làm ao
Là quy trình rất quan trọng do ao bằng phẳng. Ruộng muối phải xử lý nước ra vào nhiều lần để hạ độ mặn. Trước khi thả giống, xiết cạn đáy ao nuôi 5 – 7 ngày. Bón vôi CaCO3 100 – 150 kg/ha và diệt cá tạp bằng cây thuốc cá hoặc Saponin. Lấy nước vào thông qua lưới cước đạt độ sâu từ 25 – 30cm là được. Sau 7 – 10 ngày gây tảo bằng cách hoà tan 20 – 25kg phân gà/ha. Nếu không có phân gà thì sử dụng cám gạo với bột đậu nành (theo tỷ lệ 50 : 50), cùng với một lít phân bón lá Biotit tạt đều khắp ao nuôi. Độ pH phù hợp 7,5 – 8,5, độ trong từ 30 – 35cm.
Lựa chọn giống tốt
Mặc dù là loài dễ nuôi, song, bà con cũng nên cẩn trọng khi mua cá kèo giống. Hiện nay, nguồn con giống được cung cấp chủ yếu là từ các ngư dân vớt hoặc kéo lưới ven biển hoặc trong các khu rừng ngập mặn, chính vì thế cá giống thường không đồng đều về kích cỡ. Vì vậy, bà con chỉ cần quan sát hoạt động của cá và cá không bị các bệnh ngoài da là được. Nguồn giống chủ yếu là mua của các ngư dân vớt hoặc kéo lưới cước ở các bãi bồi ven biển, trong rừng ngập mặn, nên kích cỡ không đều nhau. Mật độ thả giống 10 – 15 con/m2, thả vào lúc chiều mát hoặc sáng sớm để tránh sốc cá.
Thức ăn dinh dưỡng và quy trình chăm sóc
Cá kèo chủ yếu ăn rong tảo, phù du trong nước, đất có nhiều bùn. Hai tháng đầu không cho ăn. Từ tháng thứ 2 trở đi cho ăn dặm thêm bằng cách cho nước ra vào thường xuyên. Bạn hãy xử lý bón phân bón lá Biotit và tăng cường thêm cám gạo và bột đậu nành. Nếu mật độ 50 – 60m2 phải bổ sung thức ăn công nghiệp dạng viên. Cá kèo nuôi trên các mô hình chưa thấy xuất hiện bệnh, lại mau lớn. Sau từ 4,5 – 6 tháng nuôi (tuỳ loại giống) có thể thu hoạch được từ 45 – 65 con/kg bằng cách xiết cạn nước rồi bắt. Sau đó đem chứa trong ao nhỏ.
Quản lý ao nuôi
– Quản lý chất lượng nước: Cần chủ động điều chỉnh mực nước ao tăng. Đồng thời giảm phù hợp với các giai đoạn phát triển của cá nuôi.
– Phòng trị bệnh cho cá nuôi:
Cá kèo thường gặp một số bệnh như trướng bụng do ăn không tiêu, bệnh lở loét trên thân do ký sinh trùng, đốm trắng trên thân và đầu kèm theo xuất huyết các góc vây do nhiễm vi khuẩn huyết. Để phòng bệnh cho cá, trước hết phải tuân thủ các khâu kỹ thuật, chọn cá giống khoẻ mạnh. Tuyệt đối không thả nuôi mật độ quá dày, không để nước ao bị ô nhiễm. Duy trì độ mặn thích hợp. Thức ăn cần phải đủ khẩu phần, đủ hàm lượng chất dinh dưỡng. Người nuôi nên bổ sung thêm các Vitamin, quan trọng nhất là Vitamin C (50 – 60 mg/kg thức ăn). Khi phát hiện cá bị bệnh, phải nhờ cán bộ chuyên môn xác định đúng loài ký sinh hay vi khuẩn gây bệnh để dùng đúng loại thuốc chữa trị và tuyệt đối không sử dụng các loại hóa chất và thuốc kháng sinh đã bị cấm.